Phía Bộ Công thương nhấn mạnh Việt Nam đang phải đối mặt với nguy cơ thiếu điện cao trong 2019 – 2020 và kéo dài tới 2022 – 2023. Với nguy cơ không có dự phòng ở vùng phụ tải cao như Tây Nam Bộ là rất lớn, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nhấn mạnh: “Tình hình đang rất cấp bách và chúng ta không thể chậm trễ hơn được nữa”.
Theo tính toán, các năm 2021 – 2025, dù đã phải huy động tối đa các nguồn điện chạy dầu, tuy nhiên hệ thống điện không đáp ứng nhu cầu phụ tải và xảy ra tình trạng thiếu điện tại miền Nam với mức thiếu hụt tăng từ 3,7 tỷ kWh (năm 2021) lên gần 10 tỷ kWh (năm 2022). Mức thiếu hụt cao nhất vào năm 2023 khoảng 12 tỷ kWh, sau đó giảm dần xuống 7 tỷ kWh năm 2024 và 3,5 tỷ kWh năm 2025.
Trong các báo cáo gửi đi, Bộ Công thương đã nêu lên thực tế là do điều kiện thời tiết bất lợi, các đập thuỷ điện không có đủ nước dẫn đến việc đối mặt với suy giảm thị trường năng lượng sơ cấp khi phải nhập 20 triệu tấn than vào năm 2020 và 35 triệu tấn than vào năm 2035. Nguồn khí cũng không đủ phục vụ phát điện cho dự án ở Đông Nam Bộ.
Bên cạnh đó, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cũng nêu ra một thực trạng khác: Nhiều dự án điện còn chậm tiến độ, gây nguy cơ thiếu điện, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, tác động đến đời sống dân sinh.
Theo đó, Bộ trưởng yêu cầu các các đơn vị, cơ quan liên quan rà soát lại khuôn khổ pháp lý, báo cáo, có biện pháp cụ thể xử lý ngay các vướng mắc đối với các dự án chậm tiến độ.
Bộ trưởng yêu cầu các đơn vị cần đánh giá cụ thể từng dự án, vướng mắc ở đâu, khó khăn chỗ nào, khả năng đáp ứng được tiến độ đến đâu. Trong trường hợp không đáp ứng được về mặt tiến độ thì giải pháp nào thay thế là gì, nếu nhập khẩu điện thì nhập khẩu ở nguồn nào, giá cả ra sao, khả năng đấu nối ra sao? Nếu sử dụng năng lượng tái tạo điện mặt trời, điện gió để thay thế thì khả năng đáp ứng được đến đâu, có những vướng mắc khó khăn hay cần phải điều chỉnh cơ chế, chính sách gì…
Bộ trưởng đề nghị Ban Chỉ đạo quốc gia về phát triển điện lực trực tiếp theo dõi, giám sát chỉ đạo, chịu trách nhiệm làm đầu mối phối hợp với Uỷ ban quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp tập trung giải quyết vướng mắc, nhất là về vốn, nguồn ngoại tệ. Đồng thời phải có chương trình làm việc hàng tháng để rà soát và thống nhất giải pháp thực hiện liên quan tới dự án chậm tiến độ, có kịch bản cho từng tình huống.